KHÁM PHÁ TRUNG HOA: TỨ ĐẠI PHÁT MINH

Tứ đại phát minh Trung Quốc cổ đại

Trung Hoa từ xa xưa luôn được ca tụng là một đất nước có nền văn hóa trải dài nghìn năm lịch sử. Vì vậy, người Trung Quốc cổ đại đã sáng tạo ra vô vàn những phát minh vĩ đại khiến cả thế giới trầm trồ. Những món đồ này đóng góp cho sự phát triển của nhân loại cũng như là sự phát triển chính trị, kinh tế và văn hóa ở Trung Quốc cổ đại. Sau đó được truyền bá sang phương Tây qua nhiều con đường khác nhau, từ đó tác động ảnh hưởng lớn đến lịch sử văn minh thế giới.

ChineseHSK đã tổng hợp những kiến thức liên quan đến tứ đại phát minh ở Trung Hoa, cùng theo chân chúng mình tìm hiểu sâu hơn nhé!

Tại sao gọi là Tứ đại phát minh? Bao gồm những gì?

Tứ đại phát minh (四大发明 sì dà fāmíng) là một loạt dấu chân huy hoàng của tổ tiên Trung Hoa cổ đại để lại cho thế giới, và là biểu tượng đóng góp to lớn cho sự tiến bộ của nền văn minh Trung Hoa nói riêng và văn minh nhân loại. Vì đây được xem là 4 phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa.

Thiên tài phát minh của người Trung Quốc rất sớm đã được phát minh vĩ đại nổi bật với bốn phát minh, đó là: giấy, la bàn, thuốc súng và kỹ thuật in ấn.

Ý nghĩa của tứ đại phát minh

Phát minh kĩ thuật làm giấy

Kĩ thuật làm giấy (造纸术 zàozhǐ shù) là một trong Tứ đại phát minh vĩ đại ở Trung Quốc và là phát minh kiệt xuất trong lịch sử văn minh nhân loại.

Trung Quốc từ xa xưa là quốc gia đầu tiên trên thế giới nuôi tằm và dệt lụa. Ở Trung Quốc cổ đại, kén tằm nổi lên được rút ra và dệt lụa, những kén còn lại và kén bệnh được làm bằng phương pháp tẩy trắng. Sau khi thả trôi xong, trên chiếu sẽ còn sót lại một ít cặn. Khi keo tụ nhiều lần, các bông cặn còn sót lại trên sẽ tích tụ thành một lớp bông xơ, sau khi khô có thể bong ra và có thể dùng để viết. Điều này cho thấy nguồn gốc của nghề làm giấy ở Trung Quốc có liên quan đến những đàn tơ.

Giấy, một trong bốn phát minh vĩ đại ở Trung Quốc cổ đại, có lẽ có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc, và có liên quan mật thiết đến hệ thống văn hóa vải vỏ cây phong phú xuất hiện hơn 6.000 năm trước ở vùng Lĩnh Nam, đặc biệt là xung quanh cửa sông Châu Giang.

Phát minh kĩ thuật làm giấy
Phát minh kĩ thuật làm giấy

Khoảng 3.500 năm trước vào thời nhà Thương, ở Trung Quốc đã có những dòng chữ khắc trên mai rùa và xương động vật, được gọi là bản khắc xương thần kỳ. Vào thời Xuân Thu, mai rùa và xương thú được thay thế bằng những mảnh tre, mảnh gỗ, gọi là nan tre, trúc gỗ.

Nhưng do việc sử dụng hay di chuyển đều rất khó khăn. Cho nên một nhà phát minh vĩ đại Thái Luân đã bắt đầu dựa trên tiền thân giấy sợi thực vật được khai quật vào thời Tây Hán để tích luỹ kinh nghiệm và tạo ra giấy được sử dụng đến ngày nay.

Nghề làm giấy được du nhập vào Nhật Bản thông qua Hàn Quốc vào thế kỷ thứ 7. Truyền bá đến các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất vào giữa thế kỷ thứ 8. Mãi cho đến thế kỷ 12, châu Âu theo phương pháp của Trung Quốc và bắt đầu thành lập các nhà máy để làm giấy.

Phát minh in ấn

In ấn (印刷术 yìnshuā shù) là một trong Tứ đại phát minh vĩ đại ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thói quen kí tên bằng triện (con dấu) của người Trung Hoa cổ đại. Khởi nguồn của nghề in có liên quan đến những ký tự khắc trên ngọc hoặc đá. Người Trung Quốc xưa khi sử dụng con dấu vẫn phải bôi lên mặt con dấu một lớp mực in.

Phát minh in ấn
Phát minh in ấn

Bản in khắc gỗ sớm nhất được biết đến là phiên bản một trang của Kinh Dharani viết bằng tiếng Phạn của Ấn Độ, in trên giấy lanh, xuất bản từ năm 650 đến năm 670, và được xuất bản vào thời nhà Đường gần Tây An năm 1974.

Trong cuốn sách “Mộng Khê Bút Đàm” viết năm 1088, ông cho rằng phát minh này là của Tất Thăng (990-1051), một thợ thủ công vô danh. Cùng với việc sử dụng các ký tự đất sét nung kết, Tất Thăng tạo ra các nét chữ, chọn và sắp xếp chúng, in chúng và tháo dỡ chúng để sử dụng sau khi in.

Vào thời nhà Nguyên, Vương Trinh, một học giả Đạo giáo, nhà nông học và thợ cơ khí nổi tiếng, đã phát minh ra loại di chuyển bằng gỗ và tạo ra một phương pháp sắp chữ bàn xoay tương đối đơn giản phù hợp với các đặc điểm phức tạp của chữ Hán. Sau đó, ông đã phát minh ra loại di chuyển bằng kim loại, cải tiến in loại có thể di chuyển được.

Vào cuối thế kỷ thứ 8, Nhật Bản đã hoàn thành bộ “Kinh Dharani” bằng gỗ và sau đó lan sang Hàn Quốc, Trung Đông và Đông Âu. Vào thế kỷ 15, người Đức đã học cách đúc các ký tự bằng hợp kim, và kiểu in di động do Tất Thăng tạo ra lần đầu tiên đã được phổ biến khắp châu Âu.

Trung Quốc là quốc gia đầu tiên trên thế giới phát minh ra ngành in ấn. Việc in ban đầu là để khắc hình ảnh và văn bản trên bảng gỗ và in bằng mực, và các bản in khắc gỗ vẫn sử dụng phương pháp này, được gọi chung là “in khối”.

Tiền thân của in khối là phổ biến ở trước Công nguyên. Con dấu và bia đá sau này, v.v. Sau sự xuất hiện của các công nghệ sản xuất như làm giấy và làm mực in, công nghệ in stencil dần được phát minh.

Phát minh la bàn

La bàn (指南针 zhǐnánzhēn) là một trong Tứ đại phát minh vĩ đại ở Trung Quốc, có hình dáng một cái muỗng cắt ra từ một miếng nam châm thiên nhiên và được đặt trên một cái đế bằng đồng đã được mài láng để giảm ma sát. Trung Quốc được công nhận là quốc gia phát minh ra la bàn trên thế giới.

Phát minh la bàn
Phát minh la bàn

Là một công cụ đơn giản được sử dụng để xác định phương hướng, tiền thân trước đây là “kim chỉ Nam”. Cũng do vì người Trung quốc xem hướng Nam là hướng của vua chúa nên dùng chữ “chỉ Nam” chứ không dùng chữ “chỉ Bắc”.

Thành phần chính là một kim từ tính được gắn trên một trục có thể quay tự do.Kim từ có thể giữ nguyên theo phương tiếp tuyến của kinh tuyến từ dưới tác dụng của địa từ trường.Chữ N của la bàn dùng để chỉ phương bắc, chữ E dùng để chỉ phương đông, chữ W dùng để chỉ phương tây.

Trung Quốc được công nhận là quốc gia phát minh ra la bàn trên thế giới vào ngành hàng hải.

Đặc biệt là nó được du nhập vào Ả Rập và Châu Âu vào thế kỷ 13. Việc phát minh và phổ biến la bàn đã tạo điều kiện quan trọng cho các nhà hàng hải châu Âu khám phá các tuyến đường mới cũng như góp phần không ít vào trong quân sự thời bấy giờ.

Phát minh thuốc súng

Thuốc súng (火药 huǒyào) là một trong Tứ đại phát minh vĩ đại ở Trung Quốc, là một loại thuốc nổ màu đen hoặc nâu, được trộn cơ học với kali nitrat, than củi và lưu huỳnh, ban đầu ở dạng bột, và sau đó ở dạng hạt. Và có kích cỡ khác nhau tuỳ theo nhu cầu.

Phát minh thuốc súng
Phát minh thuốc súng

Thuốc súng được phát minh bởi các nhà giả kim thuật Trung Quốc cổ đại vào thời nhà Tùy và nhà Đường, hơn một nghìn năm trước.

Công thức chế tạo thuốc súng được chuyển từ các nhà giả kim sang các nhà chiến lược quân sự, và nó trở thành thuốc súng đen, một trong bốn phát minh vĩ đại ở Trung Quốc cổ đại.

Phương pháp này được du nhập vào thế giới Ả Rập vào thế kỷ 12 và đến châu Âu vào thế kỷ 14. Theo như ghi chép thuốc súng ban đầu được sử dụng để chế tạo pháo hoa từ chế tạo ra các quả lựu đạn thô sơ. Thật đáng tiếc họ lại dùng chính phát minh vĩ đại đó để huỷ diệt đồng loại như tạo ra thuốc súng đáp ứng cho cuộc cách mạng trong chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới.

Hi vọng những thông tin trên đây sẽ có ích với bạn!

Xem thêm các bài viết tương tự tại chuyên mục Khám phá Trung Hoa:
TẾT NGUYÊN ĐÁN CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

 

 

0/5 (0 Reviews)
Chia sẻ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *